Nhiều doanh nghiệp vẫn còn
nhầm lẫn giữa trách nhiệm kê khai, xuất hoá đơn và các quy định về thuế với
nhau. Việc doanh nghiệp xuất hoá đơn khi đủ điều kiện ghi nhận theo quy định về
hoá đơn là trách nhiệm, việc ghi nhận doanh thu theo hoá đơn hay nghĩa vụ kê
khai thuế GTGT theo hoá đơn cũng chỉ là sự trùng hợp khi có cùng căn cứ quy
định thời điểm ghi nhận, chứ không hề có ý nghĩa “hoá đơn” là để công cụ chứng
từ để hỗ trợ trong ghi nhận những nghĩa vụ trên, doanh nghiệp đã chủ động ghi
nhận các nghĩa vụ trên thì việc xuất hoá đơn hay không cũng không có nhiều ý
nghĩa là điều không đúng.
Vậy
nên, lần này chúng ta sẽ đi làm rõ hơn quy định về các nghĩa vụ trên để các
doanh nghiệp có thể tự phân định rõ trách nhiệm của mình trong quá trình hoạt động.
Về hoá đơn, hoá đơn thường được ghi nhận theo thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá (được hiểu là thời điểm bán cho người mua). Đối với loại hình dịch vụ, xây dựng thì do hàng hoá có yếu tố đặc thù nên thời điểm xuất hoá đơn của loại hình này cũng sẽ có chút khác so với hàng hoá vật chất, tuy nhiên vẫn không làm mất bản chất là thời điểm xác định được tương đối chắc chắn về giá trị của sản phẩm mà người mua nhận được.
Việc không xuất hoá đơn sẽ bị phạt hành chính theo quy định về hoá đơn, cụ thể theo Điều 24 Nghị định 125/2020/NĐ-CP:
“…
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không lập hóa đơn tổng hợp theo quy định của pháp luật về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
b) Không lập hóa đơn đối với các hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hóa, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động, trừ hàng hóa luân chuyển nội bộ, tiêu dùng nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất.
…
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với trường hợp không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ cho người mua theo quy định.”
Nặng hơn, nếu CQT xét hành vi này vào tội trốn thuế sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 17 NĐ 125:
“1. Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
2. Phạt tiền 1,5 lần
số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy
định tại khoản 1 Điều này mà không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
3. Phạt tiền 2 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này mà có một tình tiết tăng nặng.
4. Phạt tiền 2,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này có hai tình tiết tăng nặng.
5. Phạt tiền 3 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này có từ ba tình tiết tăng nặng trở lên.
…”
Vậy có thể khẳng định ngay đối với trường hợp sản phẩm thuộc đối tượng không chịu thuế, tức hoá đơn xuất ra không phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT thì vẫn phải xuất hoá đơn. Việc xuất hoá đơn là nghĩa vụ theo hành vi, không quan tâm tới việc xuất hoá đơn đó có làm thay đổi nghĩa vụ kê khai thuế hay không. Đối với trường hợp bán hay cung cấp hàng hoá khi đã đủ điều kiện lập hoá đơn theo quy định nhưng không thực hiện sẽ bị xử phạt:
1. Xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tối đa là 20 triệu đồng;
2. Nếu
bị quy về hành vi trốn thuế sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt
theo số lần tính trên số tiền thuế trốn và gian lận;
Doanh nghiệp cần tách biệt rõ nghĩa vụ đối với từng hành vi để xác định những công việc phải làm, tránh những khoản phạt sai phạm do hiểu không đúng về bản chất của từng chỉ tiêu quản lý của CQT.
Về hoá đơn, hoá đơn thường được ghi nhận theo thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá (được hiểu là thời điểm bán cho người mua). Đối với loại hình dịch vụ, xây dựng thì do hàng hoá có yếu tố đặc thù nên thời điểm xuất hoá đơn của loại hình này cũng sẽ có chút khác so với hàng hoá vật chất, tuy nhiên vẫn không làm mất bản chất là thời điểm xác định được tương đối chắc chắn về giá trị của sản phẩm mà người mua nhận được.
Việc không xuất hoá đơn sẽ bị phạt hành chính theo quy định về hoá đơn, cụ thể theo Điều 24 Nghị định 125/2020/NĐ-CP:
“…
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không lập hóa đơn tổng hợp theo quy định của pháp luật về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
b) Không lập hóa đơn đối với các hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hóa, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động, trừ hàng hóa luân chuyển nội bộ, tiêu dùng nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất.
…
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với trường hợp không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ cho người mua theo quy định.”
Nặng hơn, nếu CQT xét hành vi này vào tội trốn thuế sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 17 NĐ 125:
“1. Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
3. Phạt tiền 2 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này mà có một tình tiết tăng nặng.
4. Phạt tiền 2,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này có hai tình tiết tăng nặng.
5. Phạt tiền 3 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này có từ ba tình tiết tăng nặng trở lên.
…”
Vậy có thể khẳng định ngay đối với trường hợp sản phẩm thuộc đối tượng không chịu thuế, tức hoá đơn xuất ra không phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT thì vẫn phải xuất hoá đơn. Việc xuất hoá đơn là nghĩa vụ theo hành vi, không quan tâm tới việc xuất hoá đơn đó có làm thay đổi nghĩa vụ kê khai thuế hay không. Đối với trường hợp bán hay cung cấp hàng hoá khi đã đủ điều kiện lập hoá đơn theo quy định nhưng không thực hiện sẽ bị xử phạt:
1. Xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tối đa là 20 triệu đồng;
Doanh nghiệp cần tách biệt rõ nghĩa vụ đối với từng hành vi để xác định những công việc phải làm, tránh những khoản phạt sai phạm do hiểu không đúng về bản chất của từng chỉ tiêu quản lý của CQT.
0 Nhận xét